Description
1. GIỚI THIỆU CHUNG
KAFOM là một dòng sản phẩm lân hai chiều Phosphites ion · Kali cao cấp thế hệ mới nhất trên thế giới, có tính năng của một loại thuốc dưỡng và thuốc ngừa bệnh, được sử dụng rộng rãi trên nhiều đối tượng cây trồng.
Với khả năng lưu dẫn nhanh, hấp thụ mạnh, hoạt chất Phosphites ion Kali của thuốc kích thích cây tiết ra chất đề kháng như Phytoalexin để tiếp xúc và tiêu diệt các tác nhân gây bệnh. Đồng thời tạo tín hiệu báo động hình thành hệ thống đề kháng cho các tế bào còn lại.
Lân hai chiều (Phosphites ion) Kali tạo sức đề kháng mạnh mẽ để phòng và tiêu diệt các loại mầm bệnh như xì mủ cây, thối thân, chết đọt, xì mủ gốc sầu riêng, vàng lá thối rễ cây có múi, chết nhanh chết chậm cây tiêu, phòng bệnh đốm nâu thanh long, lem lép hạt, phòng ngừa đạo ôn trên lúa, bệnh do oomycete như Phytophthora spp. và Pythium spp.,…
Hàm lượng Kali trong sản phẩm làm tăng chất lượng quả, duy trì lớp vỏ trái cây và tăng khả năng chống chịu sâu bệnh hại, giúp kích thích ra rễ, tạo đọt non, hình thành mầm hoa trên nhiều đối tượng cây trồng
2. ỨNG DỤNG
Tùy thuộc vào yêu cầu và đối tượng cây trồng, sản phẩm có thể sử dụng bằng cách phun qua lá – thân – cành, tưới gốc hoặc ngâm hom, chích vào thân…
– Ký hiệu: P2O5hh
Phương pháp phân tích: TCVN 1078:1999; TCVN 4440:2004; TCVN 8856:2012 hoặc ISO 6598:1985; TCVN 5815:2001; TCVN 8559:2010; TCVN 8557:2010; TCVN 8559:2010; TCVN 8560:2010
Phân lân là từ dùng để chỉ các loại phân hóa học có chứa photpho.
Cung cấp photpho hoá hợp cho cây dưới dạng ion photphat (PO43-)
Độ dinh dưỡng của phân được đánh giá bằng % P2O5 (Quy ra theo khối lượng) trong phân bón.
Nguồn lân chủ yếu là DAP; MAP; TSP; NPK, lân nung chảy, supephosphat đơn (Supe lân), supephosphat kép, supe phosphat giàu, canxi phosphat.
1. Chức năng của Lân (P2O5hh) đối với cây trồng
Lân là trung tâm trong quá trình trao đổi năng lượng và protein của cây
Lân có vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành và vận chuyển các hợp chất hữu cơ trong cây, lân kích thích bộ rễ của cây phát triển và tạo điều kiện để cây có thể đồng hóa các chất dinh dưỡng khác.
Lân tham gia vào thành phần của axít Nuclêic và màng tế bào, tạo thành ATP là vật chất mang và tải năng lượng. Lân thường chiếm từ 1-14% trọng lượng chất khô của cây.
Chu trình Photpho trong tự nhiên
* Triệu chứng thiếu hụt lân:
– Khi thiếu: Rễ phát triễn kém, lá mỏng có thể chuyển màu tím đỏ, ảnh hưởng tới việc ra hoa của cây; quả ít, chín chậm, thường có vỏ dày, xốp và dễ bị thối, nấm bệnh dễ tấn công, do Lân là thành phần của vách tế bào.
– Nếu thừa: Rất khó phát hiện, tuy nhiên dễ làm cho cây thiếu kẽm và đồng.
Triệu chứng thiếu hụt lân trên lá cà chua
2. Thang đánh giá hàm lượng lân trong đất:
– Lân tổng số (P2O5%): Tổng lượng lân hữu cơ và vô cơ
Phương pháp phân tích Loren
Nghèo: < 0,01 %
Trung bình: 0,01 – 0,05%
Khá: 0,05 – 0,1%
Giàu: > 0,1%
– Lân dễ tiêu (P2O5dt) (mg/100gr)
Phương pháp Oniani |
Phương pháp Bray |
|
Rất nghèo: |
< 5 mg/100gr |
< 10 mg/100gr |
Nghèo: |
5 -10 mg/100gr |
10 -20 mg/100gr |
Trung bình: |
10 –15 mg/100gr |
20 –30 mg/100gr |
Giàu: |
15 mg/100gr |
>> 30 mg/100gr |
3. Các loại phân lân trên thị trường:
3.1. Phân lân Supe Photphat
3.1.1 Supephotphat đơn:
Chứa 14 – 20% P2O5
Quá trình sản xuất xảy ra 1 giai đoạn bằng cách cho bột photphoric hoặc apatit tác dụng với axit sunfuric đặc.
Supe lân Lâm Thao và Supe lân trung quốc
Các sản phẩm Supe photphat trên thị trường:
+ Supe Lân Lâm Thao (Supe photphas và hóa chất Lâm Thao)
+ Supe Lân Long Thành (Phân bón Miền Nam)
+ Supe Lân Lào cai (Apromaco)
+ Supe Lân Đức Giang (Lào cai)
So sánh đặc tính của Supe Lân và Lân nung chảy
SUPE LÂN |
LÂN NUNG CHẢY |
– Có tính Axit– Không thích hợp với đất chua– Tan trong nước, cây trồng hấp thụ được ngay– Bổ sung Ca2+ cho cây |
– Có tính kiềm– Thích hợp với đất chua– Không tan trong nước, chỉ tan trong axit nhẹ hoặc axit của rễ cây tiết ra nên có tác dụng chậm nhưng lâu dài– Bổ sung cả Ca2+ và Mg2+ |
3.1.2 Supephotphat kép – TSP: chứa 40 – 50% P2O5
Quá trình sản xuất xảy ra 2 giai đoạn: Dùng axit sunphuric để điều chế axit photphoric sau đó axit photphoric tiếp tục tác dụng với photphoric hoặc apatit tạo thành supe lân kép.
Các sản phẩm Supe photphat trên thị trường:
+ Supe Lân kép Đức Giang (Lào cai)
3.2. Phân lân nung chảy: chứa 13 – 16% P2O5
Hình ảnh lân nung chảy
Để sản xuất phân lân nung chảy, người ta nung hỗn hợp quặng apatit (hay photphoric) với đá xà vân (thành phần chính là magiê silicat) và than cốc ở nhiệt độ trên 1000 độ C trong lò đứng.
Sản phẩm nóng chảy từ lò đi ra được làm nguội nhanh bằng nước để khối chất bị vỡ thành các hạt vụn, sau đó sấy khô và nghiền thành bột.
3.3. Phân Ammoni photphate:
3.3.1. Phân MonoAmon photphat (MAP): Chứa 10% (N), 50% P2O5hh
3.3.2. Phân DiAmonphotphat (DAP): Chứa 15- 18% (N), 44 – 46% P2O5hh
Phân DAP và MAP trung quốc
Là loại phân vừa có đạm, vừa có lân.
Phosphate đạm có dạng viên, màu xám tro hoặc trắng.
Phân rất dễ tan trong nước và phát huy hiệu quả nhanh. Phân được dùng để bón lót, bón thúc đều tốt.
Phân là loại dễ sử dụng. Thường dùng thích hợp ở đất nhiễm mặn vì không làm tăng độ mặn, độ chua. Phân có tỷ lệ đạm hơi thấp so với lân, cho nên cần bón phối hợp với các loại phân đạm khác, nhất là khi bón cho các loại cây cần nhiều đạm.
– Hướng dẫn thực hành sử dụng phân bón, NXB Nông nghiệp, Hà Nội,1996.
– Sổ tay phân bón vô cơ – Cục Hóa chất, Bộ Công Thương 2015
Nguồn: Admin tổng hợp
– Ký hiệu: K2Ohh
Tên tiếng anh: Potassium
Độ dinh dưỡng của phân Kali được đánh giá bằng hàm lượng %K2O trong phân
1. Tác dụng của phân Kali đối với cây trồng:
– Kali không thực sự là thành phần cấu tạo nên mô thực vật nhưng cây cần được cung cấp lượng Kali lớn cho tất cả mọi bộ phận. Kali ảnh hưởng đến sự kiểm soát nước trong quá trình thoát hơi nước khỏi thực vật.
– Khi ánh sáng yếu Kali có tác dụng kích thích quang hợp, tăng sức đề kháng cho cây.
– Phân Kali giúp cho cây hấp thu được nhiều đạm hơn, hoạt động như chất xúc tác cho việc tạo ra chất đường, chất bột, chất xơ và chất dầu, tăng cường sức chống bệnh, chống rét và chịu hạn của cây.
– Kali giúp tăng khả năng thẩm thấu qua màng tế bào, điều chỉnh độ pH, lượng nước ở khí khổng.
– Cần lưu ý rằng Kali dễ tan, dễ rửa trôi trong thời gian mưa nhiều và ngập nước, vì thế ở những vùng nhiệt đới với lượng mưa cao người ta thường bón nhiều Kali.
* Triệu chứng thiếu, thừa kali trên cây trồng:
Triệu chứng thiếu chất dinh dưỡng Kali trên cây cam và trên lá khoai tây
Triệu chứng thiếu chất dinh dưỡng Kali trên bắp ngô, quả cam và bông lúa
Khi thiếu: Ban đầu đỉnh lá già bị cháy; thiếu nặng, phần lớn lá bị cháy và rụng đi. Cây phát triển chậm và còi cọc, thân cây dễ bị đổ ngã.
Nếu thừa: Cũng khó nhận diện, tuy nhiên trên cam khi bón kali nhiều quá trái trở nên sần sùi
2. Thang đánh giá hàm lượng Kali trong đất:
– K2O tổng số (K2O%): Tổng lượng Kali trong đất
Phương pháp quang kế ngọn lửa
+ Rất nghèo: < 0,2%
+ Nghèo: 0,2 – 0,5 %
+ Trung bình: 0,5 – 0,8%
+ Khá:0,8 – 1,2 %
+ Giàu: > 1,2 %
– Kali trao đổi (K+): (mg/100 gr), (meq/100gr)
mg/100gr |
meq/100 gr |
|
Rất nghèo: |
< 4 |
< 0,1 |
Nghèo: |
4 -12 |
0,1 – 0,3 |
Trung bình: |
12 – 20 |
0,3 – 0.5 |
Giàu: |
> 20 |
> 0,5 |
3. Các loại phân Kali trên thị trường:
Nguồn Kali chủ yếu là Kali Clorua (KCl) và Kali Sunphat (K2SO4)
3.1. Kali Clorua (KCl – Sylvit) – MOP
(Chiếm khoảng 93% tổng lượng phân kali trên thế giới )
Các loại Kali Clorua trên thị trường
Phân có dạng bột màu hồng như muối ớt. Nông dân ở một số nơi gọi là phân muối ớt. Cũng có dạng clorua kali có màu xám đục hoặc xám trắng. Phân được kết tinh thành hạt nhỏ. Hàm lượng kali nguyên chất trong phân là 50 – 60% (K2O).
3.2. Kali Sunphat (K2SO4) – Potassium sulphate
Hàm lượng Kali: 45 – 50%.
Lưu huỳnh: 18%.
Phân này có thể sử dụng thích hợp cho nhiều loại cây trồng. Sử dụng có hiệu quả cao đối với cây có dầu, rau cải, thuốc lá, chè, cà phê.
Sunphat kali là loại phân sinh lý chua. Sử dụng lâu trên một chân đất có thể làm tăng độ chua của đất. Không dùng sunphat kali liên tục nhiều năm trên các loại đất chua, vì phân có thể làm tăng thêm độ chua của đất.
3.3. Kali Cacbonat (K2CO3 – Bồ tạt) – Potassium Cacbonat
* Tổng quan về phân Kali
+ Toàn bộ lượng phân kali 700 nghìn tấn đều phải nhập khẩu do Việt Nam không có mỏ kali.
+ Trên thế giới chỉ có 15 nước có ngành sản xuất phân kali quy mô lớn, chủ yếu tập trung ở Châu Âu, châu Mỹ và Trung Đông.
+ Thương mại quốc tế với phân kali trên thế giới bị chi phối bởi 6 nước sản xuất chính là: Canada, Nga, Bêlarut, Đức, Ixraen, Gioocđani.
+ Sản lượng phân kali trên thế giới đạt khoảng 55 triệu tấn, trong đó Kali Canada chiếm 1/3
+ Phân KCl được điều chế từ quặng Sylvinit, Sylvit, Carnalit, Kainit, Hanksit…
+ Những mỏ lớn trên thế giới tập trung ở Canada, Anh, Đức, Mỹ, Thái Lan.
4. Các loại quặng có chứa Kali:
4.1. Quặng Sylvit
(KCl)
63,1 % K2O
4.2. Quặng Carnalit
(KCl.MgCl2.6H2O)
17% K2O
4.3. Quặng Sylvinit
KCl.NaCl
28 %K2O
5. Công nghệ sản xuất Kali Colorua (KCl)
GS Võ Minh Kha, Hướng dẫn thực hành sử dụng phân bón, NXB Nông nghiệp, Hà Nội,1996.
1. Lân là yếu tố phân bón có thể xuất hiện nhu cầu ngay khi đã bón đủ đạm.
Trong đất, tùy theo nguồn gốc phát sinh có chứa một lượng lân nhiều hay ít đủ để cung cấp cho cây trồng khi năng suất còn thấp. Muốn đạt năng suất đó chỉ cần bón đạm là đủ. Đất mới khai hoang trừ một số trường hợp đặc biệt hiệu quả phân lânkhông rõ. Sau nhiều năm trồng trọt, không bón phân lân, lân trong đất nghèo dần. Năng suất cây trồng càng cao thì dự trữ lân trong đất càng tỏ ra không đủ để cung cấp cho cây. Sản phẩm lấy đi càng nhiều, lân trong đất càng nghèo cạn kiệt. Nhu cầu bón lân xuất hiện dần theo tình hình thâm canh phát triển.
Đó là tình hình phổ biến. Tuy vậy cũng có rất nhiều trường hợp đặc biệt ngay từ khi mới khai hoang, lân đã là yếu tố hạn chế năng suất. Đất mới khai hoang nhiều hữu cơ tươi, nhiều mùn có thể cung cấp nhiều đạm cho cây. Trên các loại đất này, cây thiếu lân hơn là thiếu đạm.
Ở nước ta hiện tượng này phổ biến ở các vùng đất thấp mới khai hoang châu thổ sông Hồng, châu thổ sông Cửu Long, vùng ven biển Đồng bằng Bắc Bộ, miền trung và Nam Bộ, vùng đát lũng núi Việt Bắc, Tây Bắc và Tây Nguyên v..v.. Ở các vùng này trồng lúa không bón lân không được thu hoạch.
2. Có khi lân là yếu tố hạn chế năng suất chứ không phải là đạm. Bón đủ lân mới có thể khai thác được dự trữ đạm trong đất.
Ở những vùng đất bình thường khác của Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và phù sa sông miền Trung khi năng suất lúa còn dưới 2 – 5 t/ha/vụ hiệu quả phân lân nhiều chỗ chưa thể hiện rõ hoặc rất thấp nhưng muốn đạt từ 2 – 5 t/ha/vụ trở lên không thể không bón thêm lân.
Thiếu đạm, cây không phát triển thân lá, không tạo thành nhiều sinh khối – cơ sở hình thành năng suất. Thiếu lân sinh khối cũng không hình thành được. Cả đạm và lân chứ không phải riêng đạm như người ta thường hiểu lầm làm tăng sinh khối của cây. Nhầm lẫn càng lớn nếu nghĩ rằng lân kìm hãm sự phat triển sinh khối.
3. Sinh khối có phát triển mới có cơ sở cho thu hoạch cao. Tác dụng của lân đến hình thành sinh khối thể hiện ở nhiều mặt:
– Lân làm tăng sự phát triển của hệ rễ làm cho cây hút được nhiều nước, nhiều chất dinh dưỡng trong đất hơn.
– Lân cần cho sự hình thành tế bào mới, tạo chồi, tạo búp, phân cành ra lá mới.
– Cây đủ lân quang hợp mạnh, tạo thành đường bột, từ đó tạo thành protit, chất béo.
Từ sinh khối tích lũy được, các chất được vận chuyển để tạo thành sản phẩm thu hoạch. Quá trình phân giải, vận chuyển, tổng hợp lại ở sản phẩm thu hoạch chịu sự tác động của các men, mà lân là thành phần có ảnh hưởng đến. Tỷ lệ giữa phần được thu hoạch và sinh khối gọi là hệ số kinh tế. Bón đủ lân hệ số kinh tế cao, tiết kiệm sử dụng phân đạm.
4. Lân trong lương thực thực phẩm và thức ăn chăn nuôi cần cho sự phát triển và sức khỏe của người và gia súc.
Bệnh còi xương của người đặc biệt là trẻ em, của gia súc non, bệnh bất dục (đẻ con ít hoặc không sinh đẻ được) là do thiếu lân và canxi trong thức ăn. Tỷ lệ lân trong ngũ cốc, đậu đỗ, cỏ chăn nuôi thay đổi theo số lượng lân được bón cho cây.
Lân ảnh hưởng đến tỷ lệ bột trong hạt và củ, tỷ lệ đường trong cây lấy đường, tỷ lệ protein, tỷ lệ dầu béo (trong cây lấy dầu như lạc, dừa đào lộn hột, vừng..). Tỷ lệ dầu thơm (trong cây hương liệu, sả, hương nhu, hồi..) Tỷ lệ nhựa mủ (thông, cao su) và độ bền của sợi, màu sắc của củ quả. Cây bón đủ lân giàu vitamin b2 và một số tài liệu cho rằng làm giảm lượng nitrat tích lũy trong củ quả. Lân là yếu tố của chất lượng sản phẩm.
5. Khi cây ra hoa kết quả, lân từ các bộ phận khác vận chuyển và tích lũy về quả, hạt và hình thành các hợp chất lân hữu cơ dự trữ trong hạt.
Khi hạt nảy mầm các hợp chất lân này sẽ phân giải cung cấp cho quá trình hình thành tế bào mới của rễ và mầm non. Vì vậy cây bón đủ lân, hạt giống dễ bảo quản, tỷ lệ nảy mầm cao, cây non phát triển bụ bẫm. Lân là yếu tố cần được chú ý khi sản xuất hạt giống.
6. Sự cân đối giữa lân và đạm góp phần giữ vững chất lượng khi bón đạm nhiều để có năng suất cao.
Sự cân đối giữa lân và đạm cũng hạn chế sự tăng sâu bệnh hại khi tăng lượng bón đạm.
Tất cả những điều nói trên giải thích tại sao cần bón thêm phân lân khi bón tăng phân đạm.
7. Cần bón lân hay không còn tùy thuộc khả năng cung cấp lân của đất.
Hiệu quả phân lân phụ thuộc vào lượng lân trong đất. Biết hàm lượng lân tổng số (lượng lân ở tất cả các dạng cây sử dụng được hay không sử dụng được) trong đất không có ích nhiều cho việc xác định lượng bón lân. Có nhiều khi có nhiều mà cây không dùng được. Quyết định cần bón hay không là ở lân dễ tiêu trong đất nhiều hay ít.
8. Lân tồn tại trong đất dưới nhiều dạng hợp chất khác nhau.
Có hợp chất tan trong nước, có hợp chất chỉ tan trong axit yếu hay dung dịch muối trung tính, có hợp chất chỉ tan được trong axit mạnh. Các hợp chất chỉ tan trong axit mạnh cây không hấp thụ được gọi là lân khó tiêu. Nhờ có thể tiết ra các axit hữu cơ, hòa tan các hợp chất lân, nên cây có thể hút được cả các chất tan trong nước và cả các hợp chất chỉ tan trong axit yếu hoặc dung dịch muối trung tính. Phần lân này được gọi là lân dễ tiêu. Định cho đúng lượng lân dễ tiêu trong đất là vấn đề phức tạp. Nhiều người nghiên cứu, mà mỗi nhà nghiên cứu lại đề ra một phương pháp khác nhau. Điều đó cũng dễ hiểu. Mỗi nhà nghiên cứu chỉ nghiên cứu một số loại đất và loại cây nhất định và đưa ra các phương pháp phù hợp cho loại đất loại cây mà mình nghiên cứu. Cho đến nay vẫn chưa thể và có lẽ không bao giờ có thể thống nhất được một phương pháp phân tích lân dễ tiêu chung.
Các phòng phân tích nông hóa căn cứ trên tính chất đất, đặc điểm cây chọn một trong rất nhiều phương pháp phân tích lân dễ tiêu để phân tích và dựa trên số liệu để phân loại đất theo 4 nhóm:
+ Nhóm rất nghèo lân dễ tiêu.
+ Nhóm nghèo lân dễ tiêu.
+ Nhóm có lượng lân dễ tiêu trung bình.
+ Nhóm giàu lân dễ tiêu.
+ Căn cứ vào đó để định lượng lân cần bón.
Loại giàu không cần bón ngay. Sau một thời gian trồng trọt lâu dài, lượng lân dễ tiêu trong đất giảm đi mới cần bón. Loại trung bình cần bón bổ sung hàng năm để bù lại lượng mất đi hàng năm. Loại nghèo và rất nghèo không những phải bón bổ sung hàng năm mà còn phải bón nhiều hơn để tăng lượng lân dễ tiêu trong đất đến mức thích hợp.
Các dung môi rút tinh lân dễ tiêu để phân tích dùng cho một loại đất cần làm thế nào phù hợp với chất lân có trong loại đất đó. Các dung môi mà các nhà nghiên cứu đề xuất có thể phân biệt thành 3 nhóm:
– Các dung môi kiềm: Dùng dung dịch NaOH 0,1 N hay dung dich K2CO3 1%, (NH4)2CO3 1%. Dung môi này phù hợp cho sự rút lân dễ tiêu ở đất giàu hữu cơ và mùn, đặc biệt các loại đất gọi là đất hữu cơ.
– Các dung môi axit: Dùng các axit mạnh như H2SO4, HCl với nồng độ rất thấp 0,1 N – 0,002 N. Dung môi này thường được dùng cho các loại đất ít hữu cơ, và trung tính ít chua.
– Các dung môi muối trung tính: Dùng các muối như NH4Cl, NaCH3 COO, NH4F, K2SO4 ở nồng độ thích hợp. Các loại dung môi này thường dùng cho các loại đất ít hữu cơ, chua.
Trong tương lai bón lân cho cây trồng càng cần phải đẩy mạnh. Xem xét đất trồng, xác định nhu cầu bón lân và giúp nông dân định lượng cần bón là việc cần làm. Các nhà khuyến nông nên xây dựng bản đồ bón lân dựa theo phân tích lân dễ tiêu trong đất và căn cứ trên loại cây và năng suất mong muốn để hướng dẫn lượng lân cần bón. Bản đồ này vừa có tác dụng giúp cho các nhà quản lý nông nghiệp các nhà kinh doanh vật tư nông nghiệp có cơ sở dự toán số lượng lân cần cung ứng cho nông dân hàng năm. Các bản đồ này 3 – 5 năm làm lại một lần cho phù hợp với tính chất đất đã thay đổi.
9. Cây chỉ hút một phần lượng lân bón vào đất.
Tỷ lệ giữa lượng lân bón vào đất và lượng lân cây hút được gọi là hệ số sử dụng lân. Hệ số sử dụng lân của cây thấp hơn hệ số sử dụng đạm rất nhiều. Hệ số sử dụng đạm khoảng 50 % (có tác giả nghiên cứu còn đưa ra số liệu thấp hơn 40%) còn hệ số sử dụng lân chỉ khoảng 30%. Phần còn lại trong đất cây có thể sử dụng một phần cho vụ sau. Vì vậy, sau nhiều vụ bón lân nếu một vụ không bón sự hụt năng suất không rõ. Chính hiện tượng này làn cho nông dân không thể nhận rõ sự cần thiết của việc bón lân. Nhưng nếu thấy như vậy mà không bón lân, sau vài vụ lân dễ tiêu cung cấp cho cây sụt xuống quá mức giới hạn, năng suất sẽ bị ảnh hưởng.
10. Vấn đề cải tạo và nâng độ phì của đất về lân lên đến mức phù hợp có thực hữu ích hay không vẫn còn là vấn đề tranh cãi về cả hai khía cạnh tự nhiên và kinh tế.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng nên cải tạo độ phì của đất về lân, tạo một lượng lân dự trữ khá trong đất làm cơ sở, sau đó hàng năm bón bổ sung lượng mất đi. Các nhà nghiên cứu này thường gặp trên các vùng đất ít chua, đất nhẹ, đất giàu hữu cơ. Ở các loại đất này lân bón vào đất bị chuyển thành các dạng lân ít hòa tan (các dạng canxi photphat và các phức hợp lân – mùn) dễ được di chuyển trả lại cung cấp cho cây. Hiện tượng này còn được gọi là sự hấp phụ nhưng không giữ chặt hoặc giữ chặt rất yếu. Các kết luận mà các nhà nghiên cứu về lân trên đất phèn, trên đất laterit chua rút ra lại khác. Các loại đất này thường là giàu sét, có khi giàu hữu cơ, chua nhiều sắt, nhôm dễ hòa tan, dễ di động. Phân lân bón vào dễ chuyển thành dạng khó hòa tan tồn trữ lại trong đất. Fe, Al photphat và các ion photphat bị keo sét tích điện dương hấp phụ rất khó di chuyển trở lại để cung cấp cho cây. Đó là hiện tượng hấp phụ và giữ chặt lân. Phân lân dễ tiêu bón vào đất này rất nhanh chóng chuyển thành dạng khó tan, hiệu lực còn lại thấp. Trên vùng đất đỏ Tây Nguyên chỉ 2 đến 3 vụ sau hiệu lực còn lại của lân đã không còn rõ nữa. Trên đất phèn Đồng Tháp Mười có khi ngay vụ sau đã hết hiệu lực, thậm chí trên đất phèn nặng mới khai hoang, bón đầu vụ đến cuối vụ đã thấy thiếu lân.
Như vậy ngoài khía cạnh kinh tế, sử dụng vốn đầu tư vào phân bón, ứ đọng vốn khi áp dụng cách bón cải tạo, không nên bón nhiều lân một lúc để cải tạo các loại đất này, vì nếu có bón nhiều lân ở dạng dễ tiêu, lân dễ tiêu cũng sẽ bị chuyển thành dạng khó tiêu cây không sử dụng được. Ý đồ cải tạo sẽ khó có thể thực hiện được. Các loại đất của nước ta, rất đáng tiếc phần lớn có khả năng hấp phụ lớn và giữ rất chặt lân, không nên áp dụng biện pháp bón cải tạo mà nên bón hàng năm. Phần không sử dụng hết sẽ nâng dần độ phì của đất.
Nên bón nhiều lân để cải tạo độ phì về lân của đất hay chỉ nên bón vừa phải từng vụ, điều đó phụ thuộc vào tính chất đất có khả năng hấp phụ và giữ chặt lân mạnh hay yếu. Không nên dùng lượng lân cao để cải tạo độ phì về lân của đất ở các vùng đất sét giàu hữu cơ, chua và lượng sắt nhôm hòa tan cao.
11. Khác với đạm, bón lân nếu vượt quá mức cây cần dùng vẫn không làm giảm năng suất và phẩm chất nông sản đến mức nhận thấy rõ ràng.
Nếu vẽ đường cong tương quan giữa năng suất và lượng bón lân ta bón thường không tìm thấy đỉnh tối đa. Như vậy không nhất thiết phải quá thận trọng hạn chế lượng bón lân. Thường nên bón quá mức cần dùng một ít để tránh vì thiếu lân mà phân đạm không phát huy hết hiệu quả.
12. Những kết quả nghiên cứu ở vùng trồng lúa năng suấ cao, ở vùng trồng cam cho thấy rằng sau nhiều năm bón phân lân dễ tiêu (supe lân, DAP) một số vi lượng như kẽm, vi lượng đồng bị chuyển thành dạng cây không sử dụng được.
Hiện tượng thiếu Zn ở một số vùng trồng lúa Philipin, trên cây lanh ở nước Pháp và cũng bắt đầu xuất hiện ở vài nơi ở nước ta là ví dụ. Quan sát của Bingham trên cây cam cho thấy lượng đồng giảm xuống đến mức gây bệnh thiếu đồng do bón lân cao trong nhiều năm là một ví dụ khác. Người ta cũng quan sát thấy khi bón lân cho cây trồng nhu cầu Bo và Molybden cao lên. Nhiều nhà sản xuất phân bón vì vậy đã cho thêm vi lượng vào trong phân lân. Trên thương trường đã có xuất hiện các loại phân lân có Bo, có Mo, Zn, Cu, Mn.. để nông dân có thể chọn lựa khi cần thiết. Nên có các loại phân lân có chứa vi lượng.
13. Phân lân nên chú ý sử dụng để bón lót vì hai lý do:
– Lân rất cần cho sự phát triển của rễ và sự phát triển mầm cây ở giai đoạn cây non.
– Phân lân sau khi bón vào đất cho dù ở dạng hòa tan hay không hòa tan đều ít di chuyển, ít bị rửa trôi và mất đi. Cho nên nếu không phải là tất cả thì cũng là phần lớn lượng lân nên dùng bón lót. Mặc dầu lân rất cần cho sự hình thành sản phẩm thu hoạch, hạt và củ và ảnh hưởng đến phẩm chất sản phẩm thu hoạch nhưng khó có cách đưa lân tiếp cận đến rễ non vào đúng các giai đoạn cây cần bằng cách bón thúc. Lân khuếch tán chậm và không xa. Nếu cuốc xới để đưa lân vào tiếp cận với rễ sẽ làm đứt rễ rụng hoa quả. Để giải quyết nhu cầu lân vào các thời kì này, cách thường dùng là phun lân lên lá cây cùng với các chất vi lượng và điều hòa sinh trưởng. Một số nhà sản xuất đang chú ý sản xuất phân không bị hấp phụ như photphat và các pyrophotphat, metaphotphat dùng bón thúc. Ý định này vẫn còn đang ở giai đoạn nghiên cứu.
Lân bón lót, trừ ruộng lúa và các cây trồng không theo hàng, bón cho các cây trồng khác, nên bón cùng với hạt giống theo hàng hoặc theo hốc cây. Làm như vậy rễ cây có thể tiếp xúc với phân, lấy phân được dễ dàng.
Đối với cây lâu năm nên bón phân lân đến tận vùng rễ non phát triển vào cuối vụ đông.
14. Nguyên nhân của hiện tượng chuyển lân thành dạng khó hòa tan cây khó sử dụng là do phân tiếp xúc với keo đất và các chất hóa học trong dung dịch đất.
Hiện tượng này rất mạnh ở đất quá kiềm hoặc quá chua giàu sét, giàu hữu cơ, nhiều sắt nhôm hòa tan và ít hơn ở đất ít chua, trung tính hoặc trên đất cát nhẹ. Trên các loại đất có khả năng hấp phụ và giữ chặt lân mạnh, làm cho phân ít tiếp xúc với đất bằng cách viên thành viên trộn lẫn với phân chuồng, bón theo hàng theo hốc có thể làm tăng hiệu quả phân lân.
Nên sản xuất phân lân viên cho cây trồng cạn và cây lâu năm.
15. Bón thúc lân hay không phụ thuộc vào cây và đất.
Những loại đất mà quá trình chuyển lân thành dạng khó hòa tan mạnh có nhu cầu bón thúc lân. Canh tác trên đất phèn nếu để cho mất nước khô ruộng, phèn xì lên, sắt nhôm chuyển lân thành dạng khó hòa tan. Sau khi dùng nước rửa và ém phèn cần bón thúc lân cho lúa, lúa mới hồi phục nhanh được. Các ruộng lúa đất nặng, người cấy lúa nhiều khi không chú ý đến bùn quá loãng khi cấy, cây lúa bị cấy quá sâu, rễ thối, lúa vàng đứng cây không đẻ nhánh được. Chỉ sau khi rễ ở các mắt trên phát triển lúa mới bắt đầu hồi phục. Hiện tượng này gọi là nghẹt rễ, ngộ độc H2S. Khi gặp hiện tượng này cũng cần bón thúc lân để cho lúa hồi phục nhanh hệ rễ, sau đó bón tiếp phân đạm cho lúa chóng phát triển. Một số cây hoa màu như ngô, đậu đỗ bón thúc lân vào các thời kì vươn cao nếu đất xấu và xuất hiện dấu hiệu thiếu lân đều làm tăng năng suất. Các loại cây có thời gian sinh trưởng dài như mía, sắn bón thúc lân vào các đợt làm cỏ, vun cây về sau đều có hiệu lực.
16. Phân lân bón cho cây lâu năm nên bón vào đầu mùa đông.
Vào mùa đông cây lâu năm thường rụng lá và ngừng phát triển. Trong thời kỳ này cây phát triển mạnh hệ rễ. Bón phân lân sớm vào đầu mùa đông có hai mặt lợi: Làm cho hệ rễ phát triển mạnh giúp cho cây tìm được nhiều nước hơn trong mùa đông khô hanh, tạo cho cây phát triển mạnh vào mùa xuân và giúp cho cây trồng chống rét vào mùa đông.
Phân lân bón cho cây lâu năm thường được trộn với phân hữu cơ và được bón vào các hố đào quanh cây chiếu thẳng từ tán cây xuống đất.
Sự di chuyển yếu trong đất làm cho các đợt bón phân trong các năm sau khó đưa phân đến vùng phát triển của hệ. Các nghiên cứu để có những loại phân lân dễ di chuyển chưa có kết quả như ý. Nhiều nhà nghiên cứu đề xuất phương pháp dùng phân lỏng tiêm vào đất bằng các loại bơm áp lực cao đến nay vẫn còn nhiều khó khăn về kỹ thuật chưa vượt qua. Vì vậy để đảm bảo cung cấp lớn cho các năm sau nên khuyến cáo nông dân bón nhiều phân lân vào hố trồng cây ban đầu.
Nguồn: camnangcaytrong.com
Xem thêm chủ đề: phân lân, các loại phân lân, hướng dẫn sử dụng phân lân
Bài liên quan
-
Đặc điểm của phân lân nung chảy và cơ sở khoa học sử dụng hiệu quả ở Việt Nam
Phân lân là một trong ba loại phân bón đa lượng chủ yếu cho cây trồng. Nước ta lại có nguồn quặng apatít dồn dào để sản xuất phân lân nung chảy (FMP)…
-
Cẩm nang phân lân: Phần 1: Giới thiệu các loại phân lân hóa học
Phân lân là từ dùng để chỉ các loại phân hóa học có chứa photpho. Có nhiều người muốn dùng từ phân photpho thay thế phân lân…
-
Quy trình công nghệ sản xuất Supe lân đơn (tham khảo)
Supe photphat là phân bón photphat phổ biến nhất. Là một loại bột màu sám, thành phần chủ yếu của nó là mono canxi photphat Ca(H2PO4)2.H2O và canxi sunphat khan…
- TƯ VẤN KỸ THUẬT: 0969.64.73.79